Nội dung có sửa đổi, hướng dẫn
Nội dung có thay đổi, hướng dẫn được thể hiện qua màu sắc:
  • : Sửa đổi, thay thế, hủy bỏ
  • : Bổ sung
  • : Đính chính
  • : Hướng dẫn
Click vào nội dung được bôi màu để xem chi tiết.
Mục lục
Hiệu lực: Còn hiệu lực
Ngày có hiệu lực: 20/11/1970

THÔNG TƯ

Hướng dẫn thi hành điều lệ tổ chức thanh tra tài chính

________________________

Hội đồng Chính phủ vừa ra nghị định số 174-CP ngày 10-9-1970 ban hành điều lệ tổ chức thanh tra tài chính để thay thế nghị định số 1077-TTg ngày 12-10-1956 và tất cả các văn bản về tổ chức thanh tra tài chính đã ban hành trước đây.

Để giúp Ủy ban hành chính các tỉnh, thành phố chỉ đạo công tác thanh tra tài chính ở địa phương, Bộ ra thông tư này hướng dẫn việc thi hành điều lệ tổ chức thanh tra tài chính mới ban hành.

I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC BAN HÀNH ĐIỀU LỆ MỚI VỀ THANH TRA TÀI CHÍNH

Từ ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta đã từng bước ban hành các chính sách tài chính và các chế độ quản lý phù hợp với tình hình mới trong từng thời kỳ. Những chế độ ấy tuy chưa hoàn chỉnh nhưng đã có tác dụng rất lớn trong việc tập trung và tích lũy vốn, động viên sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân, phân phối hợp lý vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hóa, quản lý và kiểm tra việc thu chi của các cơ quan Nhà nước và góp phần vào việc xây dựng phương thức quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Chính sách và chế độ tài chính có một vị trí rất quan trọng trong việc quản lý Nhà nước, quản lý nền kinh tế quốc dân, nên phải được chấp hành một cách rất nghiêm túc; nếu không thì những hiện tượng không lành mạnh sẽ nảy sinh, ảnh hưởng không tốt đến việc xây dựng và phát triển kinh tế cũng như đến việc củng cố và tăng cường những quan hệ sản xuất mới.

Để tăng cường công tác quản lý tài chính Nhà nước, cần phải tăng cường công tác giám đốc của cơ quan tài chính Nhà nước đối với các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, song song với việc thúc đẩy thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới trong từng ngành và chế độ kiểm tra kế toán như đã quy định trong điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước. Nhưng chỉ tăng cường công tác giám đốc tài chính và kiểm tra kế toán cũng chưa đủ, vì công tác kiểm tra và giám đốc tài chính tuy tiến hành thường xuyên, nhưng không có điều kiện để đi sâu và rút kết luận về mọi mặt của vấn đề quản lý, do đó phải tăng cường công tác thanh tra tài chính. Đây là một yêu cầu rất quan trọng và bức thiết để giữ vững sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Nhà nước đối với việc quản lý tài chính, ngăn chặn kịp thời những vụ vi phạm chính sách, chế độ, kỷ luật tài chính, nhằm bảo đảm cho tài chính Nhà nước không ngừng được củng cố và hoạt động của các ngành ngày càng đi vào nền nếp.

Trước yêu cầu nói trên, Hội đồng Chính phủ đã ban hành điều lệ mới về thanh tra tài chính để xác định rõ hơn mục đích của thanh tra tài chính, quy định cụ thể hơn những nhiệm vụ và quyền hạn của Ban thanh tra tài chính ở trung ương, ở các tỉnh và thành phố, nguyên tắc và lề lối làm việc của thanh tra tài chính cho phù hợp với tình hình mới.

Điều lệ mới xác định rõ mục đích của thanh tra tài chính là thanh tra việc quản lý tài chính Nhà nước, nhằm “bảo đảm cho các chính sách, chế độ, kỷ luật tài chính được chấp hành nghiêm chỉnh ở các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, đưa việc quản lý và giám đốc tài chính của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở đi vào nền nếp, bảo đảm cho lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước được sử dụng hợp lý và tiết kiệm, đem lại hiệu quả kinh tế hay lợi ích thiết thực”. Như vậy là công tác thanh tra tài chính không những thúc đẩy các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở phải tuân thủ pháp luật trong việc quản lý tiền bạc, của cải của Nhà nước mà còn theo dõi và phát hiện xem việc sử dụng tiền bạc, của cải đó có được hợp lý, đem lại hiệu quả cao nhất hay không. Do đó có thể xác định rằng làm tốt công tác thanh tra tài chính là đóng góp rất lớn vào việc quản lý tài sản của Nhà nước, giúp cho ngân sách Nhà nước được thực hiện đúng kế hoạch và tạo điều kiện tốt cho việc phát triển kinh tế.

II. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THANH TRA TÀI CHÍNH

Điều lệ mới quy định rõ là thanh tra tài chính thanh tra tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh, các tổ chức kinh tế tập thể, các đoàn thể và tổ chức xã hội được Nhà nước trợ cấp về tài chính (trừ trường hợp có quy định riêng của Thủ tướng Chính phủ). Như vậy là thanh tra tài chính ở trung ương có thể thanh tra tất cả các cơ quan và tổ chức kể trên, không kể là do trung ương quản lý hay địa phương quản lý; thanh tra tài chính tỉnh và thành phố có thể thanh tra tất cả các cơ quan và tổ chức thuộc quyền quản lý của địa phương. Riêng về những cơ sở của trung ương đặt tại địa phương thì căn cứ vào điều lệ về phân cấp quản lý tài chính số 119-CP ngày 01-8-1967, nếu Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố thấy có những hiện tượng vi phạm chính sách, chế độ, kỷ luật tài chính thì Ủy ban hành chính báo cho Bộ Tài chính biết để Bộ, tùy trường hợp, cử thanh tra tài chính ở trung ương về thanh tra, hoặc ủy nhiệm việc ấy cho Ban thanh tra tài chính ở địa phương. Đối với các tổ chức kinh tế tập thể, nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan có trách nhiệm trực tiếp quản lý kinh tế tập thể bao gồm cả nhiệm vụ kiểm tra tài chính kế toán. Vì vậy Ban thanh tra tài chính ở địa phương nên tiến hành thanh tra các tổ chức kinh tế tập thể một cách có trọng tâm, trọng điểm, chủ yếu nhằm những việc có liên quan đến tài chính Nhà nước (ví dụ hợp tác xã không làm tròn nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước hay nhận kế hoạch gia công đặt hàng của kinh tế quốc doanh nhưng đã tìm cách bớt xén nguyên vật liệu hay móc ngoặc với cán bộ để bòn rút tài sản và tiền bạc của Nhà nước, gây tổn thất cho tài chính Nhà nước,v v…).

Điều lệ mới xác định rõ ràng và đầy đủ hơn nhiệm vụ cụ thể của thanh tra tài chính: thanh tra việc chấp hành ngân sách của các ngành, các cấp, việc chấp hành kế hoạch thu chi tài vụ của các tổ chức kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh, việc chấp hành dự toán thu chi của các đơn vị dự toán, việc bảo vệ và quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa, việc chấp hành các chính sách, chế độ, kỷ luật tài chính, kế toán, tín dụng, thanh toán tiền mặt và những chính sách, chế độ, kỷ luật khác có liên quan đến tài chính.

Điều lệ mới cũng nêu việc thanh tra công tác của các cơ quan tài chính và ngân hàng thành một nhiệm vụ chính, nhằm phát hiện những lệch lạc trong việc chấp hành các chính sách tài chính và tín dụng để kịp thời uốn nắn, đồng thời bồi dưỡng thêm về chính sách và nghiệp vụ cho cán bộ của các cơ quan này để họ làm tốt hơn việc quản lý tài chính và giám đốc đối với các ngành chủ quản.

Những quyền hạn mà pháp luật quy định cho thanh tra tài chính, trong điều lệ mới, bảo đảm cho thanh tra tài chính có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Điều lệ mới đặt thành nhiệm vụ cho các đối tượng thanh tra và các cơ quan liên quan phải nghiên cứu giải quyết và trả lời cho thanh tra tài chính biết về những kiến nghị của thanh tra tài chính. Quy định này vừa có tác dụng nâng cao trách nhiệm của thanh tra tài chính trong việc nghiên cứu, đề xuất ý kiến nhằm giúp đối tượng thanh tra tăng cường và cải tiến quản lý kinh tế, tài chính, vừa nâng cao trách nhiệm của các đơn vị là đối tượng thanh tra đối với việc tiếp thu những ý kiến đề xuất của thanh tra tài chính vì lợi ích công việc của đơn vị, của ngành, của địa phương.

III. NGUYÊN TẮC VÀ LỀ LỐI LÀM VIỆC CỦA THANH TRA TÀI CHÍNH

Điều lệ mới đã xác định rõ những nguyên tắc và lề lối làm việc của Ban thanh tra tài chính. Điểm cải tiến căn bản về phương pháp làm việc của tổ chức thanh tra tài chính ở địa phương là phải tiến hành công tác theo một kế hoạch được Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố duyệt. Kế hoạch thanh tra tài chính lập hàng năm, có chia ra từng quý, phải có trọng tâm, trọng điểm, nhằm vào những vấn đề quản lý kinh tế, tài chính chủ yếu trong từng thời kỳ ở địa phương và có tham khảo kế hoạch của Ban thanh tra tài chính ở trung ương. Để phát huy hiệu lực của thanh tra tài chính, cần thực hiện đúng quy định tại điều 11 của điều lệ: “mỗi cuộc thanh tra phải xác định mục đích, yêu cầu, phạm vi cho thật rõ ràng” và chỉ nên đi vào một số mặt nhất định của công tác tài chính, để có thể hoàn thành nhanh, gọn. Cần khắc phục tình trạng trước đây thanh tra tài chính làm việc không có kế hoạch, thường chạy theo các yêu cầu đột xuất, sa lầy vào một số vụ điều tra tham ô, thu hút mất nhiều cán bộ, trong một thời gian dài, cản trở việc thực hiện công tác thanh tra theo kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm.

Chống tham ô, lãng phí đối với thanh tra tài chính chủ yếu là tăng cường kiểm tra việc chấp hành chế độ, thể lệ, kỷ luật tài chính để kịp thời phát hiện những việc làm sai trái, gây tổn thất cho tài chính Nhà nước, từ đó phát huy tác dụng phòng ngừa, không để xảy ra tham ô, lãng phí. Nếu trong quá trình thanh tra mà thấy có nghi vấn tham ô thì vấn đề phải được điều tra bằng nhiều mặt và thường mất nhiều thời gian, riêng bằng phương pháp thanh tra tài chính không làm nổi. Gặp trường hợp này, thanh tra tài chính phải báo cáo với Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố và chuyển giao nhiệm vụ cho các cơ quan có thẩm quyền như công an, kiểm sát… tổ chức điều tra riêng; nếu có những vấn đề về kế toán phải làm cho sáng tỏ thì cử giám định kế toán giúp sức. Tùy hoàn cảnh, điều kiện và yêu cầu công tác, thanh tra tài chính có thể tham gia hoặc không tham gia vào các cuộc điều tra nói trên, nhưng sẽ căn cứ vào kết quả điều tra, kiểm tra để rút ra những kết luận chính xác nhằm tăng cường công tác quản lý tài chính. Làm như vậy, sẽ bảo đảm cho thanh tra tài chính ở địa phương hoàn thành được tốt kế hoạch thanh tra đã được duyệt.

Để tạo điều kiện cho thanh tra tài chính ở địa phương làm tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời nâng cao dần trình độ cho cán bộ tài chính ở địa phương, cần tăng cường sự hợp tác chặt chẽ giữa các bộ phận nghiệp vụ trong bộ máy Sở, Ty tài chính với Ban thanh tra tài chính ở địa phương. Mỗi khi tiến hành một cuộc thanh tra, nếu xét cần thiết, Ban thanh tra tài chính đề nghị với Sở, Ty tài chính cử những cán bộ nghiệp vụ làm công tác quản lý ở Sở, Ty có năng lực và điều kiện tham gia vào công tác thanh tra với tư cách là chuyên viên. Như vậy vừa sử dụng được hết năng lực của cán bộ, không làm tăng biên chế của tổ chức thanh tra mà lại tăng cường được sự hợp tác giữa các bộ phận trong Sở, Ty tài chính để hoàn thành nhiệm vụ quản lý và giám đốc tài chính Nhà nước.

IV. TỔ CHỨC BỘ MÁY THANH TRA TÀI CHÍNH Ở TỈNH VÀ THÀNH PHỐ

 Điều lệ mới về tổ chức thanh tra tài chính giao nhiệm vụ cho Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố quy định tổ chức và biên chế của Ban thanh tra tài chính ở địa phương, sau khi có sự thỏa thuận của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Hiện nay ở địa phương đã có Ban thanh tra tài chính đang hoạt động. Vấn đề đặt ra là cần chấn chỉnh tổ chức thanh tra tài chính hiện có sao cho phù hợp với những quy định trong điều lệ mới, bảo đảm cho tổ chức thanh tra tài chính làm việc có hiệu lực hơn và hoàn thành tốt nhiệm vụ theo chức năng đã quy định.

Dưới đây Bộ nêu một số phương hướng về việc kiện toàn bộ máy thanh tra tài chính cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới:

Đối tượng và phạm vi hoạt động của thanh tra tài chính, theo điều lệ mới, rất rộng bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi thanh tra tài chính phải có kiến thức chung khá rộng, đồng thời am hiểu từng mặt nghiệp vụ khá sâu. Cho nên về cơ cấu tổ chức, Ban thanh tra tài chính ở địa phương nên gồm một số bộ phận công tác (tổ, nhóm hoặc cán bộ) được chuyên môn hóa; mỗi bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách thanh tra một số đối tượng nhất định:

- Một bộ phận chuyên trách thanh tra tài chính các cơ quan hành chính, sự nghiệp (sự nghiệp văn xã, sự nghiệp kinh tế) và các tổ chức kinh tế tập thể;

- Một bộ phận chuyên trách thanh tra tài chính các ngành sản xuất, kinh doanh như công nghiệp, thương nghiệp… và các xí nghiệp, các đơn vị cơ sở thuộc các ngành này;

- Một bộ phận chuyên trách thanh tra công tác của cơ quan tài chính, ngân hàng kiến thiết (các phòng tài chính huyện và thị xã, các Chi điếm ngân hàng kiến thiết…) và các mặt công tác có liên quan đến tài chính Nhà nước của các cơ quan ngân hàng Nhà nước, các quỹ tiết kiệm và tổ chức tín dụng.

Nguyên tắc là phân công chuyên trách để có điều kiện đi sâu vào nghiệp vụ và tích lũy kinh nghiệm nhưng đồng thời phải tăng cường sự phối hợp, kết hợp công tác giữa các bộ phận, trao đổi, phát hiện, phổ biến kinh nghiệm và khi có công tác trọng tâm thì cần tập trung lực lượng, điều động cán bộ từ bộ phận này sang bộ phận khác để hoàn thành kế hoạch công tác.

Về chế biến, các địa phương cần căn cứ vào nhiệm vụ và khối lượng công việc của thanh tra tài chính ở địa phương mà bố trí cán bộ trên tinh thần tinh giản, chú trọng chất lượng hơn số lượng, làm sao cho bộ máy được gọn, nhẹ, có hiệu lực cao. Đối với các tỉnh nhỏ và trung bình, ngoài trưởng ban và phó ban, có thể bố trí từ 6 đến 8 thanh tra tài chính; đối với các tỉnh lớn và các thành phố, từ 9 đến 11.

Để bảo đảm cho bộ máy thanh tra tài chính làm việc có hiệu lực, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố cần lựa chọn cán bộ một cách thận trọng, theo các tiêu chuẩn quy định trong điều lệ mới: “ vững về chính trị, có đạo đức và tác phong tốt, có hiểu biết về nghiệp vụ tài chính, kế toán”. Thanh tra tài chính nên lựa chọn trong các cán bộ đã làm công tác tài chính, ngân hàng lâu năm, thông hiểu chính sách, chế độ, có kinh nghiệm công tác, có nhiệt tình cách mạng và tính chiến đấu cao, có tác phong đi sâu đi sát, thực hiện công tác theo đường lối quần chúng.

Đối với việc bổ nhiệm trưởng ban, cần căn cứ vào sự phân công giữa trưởng ty và phó ty, giữa giám đốc và phó giám đốc và tình hình cụ thể từng địa phương để chọn người có điều kiện nhất chuyên trách làm công tác thanh tra.Trường hợp xét cần cử trưởng ty hoặc giám đốc sở làm trưởng Ban thanh tra tài chính thì cần chọn một cán bộ có trình độ tương đương với phó ty, hoặc phó giám đốc là phó ban chuyên trách vì trưởng ty hoặc giám đốc còn phải gánh vác nhiều nhiệm vụ khác, không thể dồn tất cả tâm trí và thời giờ vào công tác thanh tra được. Nếu cử phó ty hoặc phó giám đốc sở làm trưởng ban, thì cán bộ này nhất thiết phải chuyên trách và trực tiếp làm công tác thanh tra tài chính.

Đề nghị Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố:

- Phổ biến thật rộng rãi điều lệ tổ chức thanh tra tài chính mới cho đến tận các đơn vị cơ sở để mọi người biết và chấp hành nghiêm chỉnh;

- Xúc tiến ngay trong những tháng cuối năm việc lập đề án về tổ chức, biên chế của thanh tra tài chính ở địa phương: cử trưởng ban và phó ban, bố trí lại cán bộ theo đúng quy định của điều lệ mới, đồng thời xây dựng chế độ công tác của Ban thanh tra tài chính để Ban này có thể sớm bắt đầu hoạt động theo hướng mới. Đề án tổ chức, biên chế cũng như danh sách trưởng ban, phó ban thanh tra tài chính của tỉnh, thành phố cần gửi về Bộ càng sớm càng tốt, để Bộ có kế hoạch tập trung bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ thanh tra tài chính;

- Hướng dẫn Ban thanh tra tài chính xây dựng kế hoạch thanh tra tài chính năm 1971 và gửi kế hoạch ấy về Bộ trong tháng 12-1970;

- Ra chỉ thị cho các ngành ở địa phương tăng cường công tác kiểm tra và giám đốc thường xuyên về tài chính và kế toán đối với các xí nghiệp, các tổ chức và cơ quan thuộc phạm vi quản lý của ngành, đồng thời tạo mọi điều kiện cho thanh tra tài chính ở địa phương làm công tác được thuận lợi.

Tải file đính kèm
Bản PDF
File đính kèm:
1503134233315_108826411199_371.TC.TTR.doc
Hiệu lực: Còn hiệu lực
Ngày có hiệu lực: 20/11/1970
Hướng dẫn thi hành điều lệ tổ chức thanh tra tài chính
Số kí hiệu 371-TC/TTR Ngày ban hành 20/11/1970
Loại văn bản Thông tư Ngày có hiệu lực 20/11/1970
Nguồn thu thập Ngày đăng công báo
Ngành Tài chính -Thuế - Ngân hàng Lĩnh vực
Cơ quan ban hành/ Chức danh/ Người ký Bộ Tài chính Bộ Trưởng Đặng Việt Châu
Phạm vi
Thông tin áp dụng
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
Hiệu lực:

Còn hiệu lực

Ngày có hiệu lực:

20/11/1970

Lịch sử hiệu lực:

Thông tư 371-TC/TTR

Ngày Trạng thái Văn bản nguồn Phần hết hiệu lực
20/11/1970 Văn bản được ban hành 371-TC/TTR
20/11/1970 Văn bản có hiệu lực 371-TC/TTR
Văn bản liên quan
Không có văn bản liên quan nào được chọn
  • VB bị thay thế
  • VB được QĐ chi tiết, HD thi hành
  • Văn bản bị bãi bỏ
  • Văn bản bị bãi bỏ một phần
  • Văn bản bị hủy bỏ
  • Văn bản bị hủy bỏ một phần
  • Văn bản bị hết hiệu lực
  • Văn bản bị hết hiệu lực một phần
  • Văn bản bị thay thế một phần
  • Văn bản bị đình chỉ
  • Văn bản bị đình chỉ một phần
  • Văn bản chỉ được bổ sung
  • Văn bản căn cứ
  • Văn bản dẫn chiếu
  • Văn bản liên quan khác
  • Văn bản tiếng anh