Nội dung có sửa đổi, hướng dẫn
Nội dung có thay đổi, hướng dẫn được thể hiện qua màu sắc:
  • : Sửa đổi, thay thế, hủy bỏ
  • : Bổ sung
  • : Đính chính
  • : Hướng dẫn
Click vào nội dung được bôi màu để xem chi tiết.
Mục lục
Hiệu lực: Hết hiệu lực toàn bộ
Ngày có hiệu lực: 27/10/1981

THÔNG TƯ

Hướng dẫn việc xác định sản lượng tính thuế ruộng đất 1 vụ đã chuyển thành ruộng có tập quán làm 2 vụ

_______________________________

 Điều 8 và điều 9 chương II, điều lệ TNN ban hành theo Nghị định Hội đồng Chính phủ số 185-CP ngày 25/9/1976 quy định:

"Khi định sản lượng thường niên thì chỉ căn cứ vào sản lượng ước tính của những vụ chính đã thành tập quán. Nếu do thâm canh tăng năng suất tăng vụ mà thu hoạch cao hơn thì thuế vẫn tính theo sản lượng thường niên; ngược lại nếu ít chăm sóc ruộng đất và cây trồng, thu hoạch kém, thuế cũng vẫn tính theo sản lượng thường niên."

"... Sản lượng thường niên sau khi UBND tỉnh đã điều tra và xét hợp lý được giữ nguyên không thay đổi cho đến năm 1980".

Từ hoà bình lập lại, công tác thuỷ lợi phát triển, phong trào thâm canh tăng vụ được mở rộng và có nhiều hình thức sản xuất tăng vụ khác nhau:

- Có vùng sản xuất lúa mùa là chính vụ đã chuyển sang sản xuất đông xuân là chính vụ.

- Có vùng sản xuất lúa mùa là chính vụ đã chuyển sang sản xuất hè thu hoặc sản xuất vụ mùa sớm là chính vụ hè .

- Có vùng sản xuất lúa mùa là chính vụ đã chuyển sang sản xuất đông xuân là chính vụ và tăng thêm vụ hè thu, đưa ruộng 1 vụ là chính lên thành ruộng hai vụ ăn chắc.

- Nhiều vùng sản xuất 1 vụ là chính đã sản xuất thêm 1 vụ nữa là vụ hè thu ăn chắc.

- Nhiều vùng sản xuất 1 vụ là chính đã sản xuất thêm 1 vụ nữa là vụ xuân hè ăn chắc.

Hết năm 1980 là hết thời gian ấn định sản lượng tính thuế, bước vào vụ TNN năm 1981, nhiều tỉnh đã xác định lại sản lượng thường niên tính thuế ở những vùng tình hình sản xuất và thu hoạch của ruộng đất đã thay đổi, nhất là ruộng đất từ 1 vụ đã sản xuất tăng thêm 1 vụ thứ hai, đến nay đã trở thành tập quán hai vụ và để tính thuế cho năm TNN 1981, bảo đảm được những nguyên tắc cơ bản của chính sách, nhưng việc thực hiện chưa đều, có nơi vẫn chưa định sản lượng thường niên vụ tăng vụ đã thành tập quán để đưa vào tính thuế. Tình hình ấy có ảnh hưởng đến nguyên tắc công bằng hợp lý của chính sách thuế nông nghiệp.

Để đảm bảo việc xác định sản lượng tính thuế của các loại ruộng đất tăng vụ, từ ruộng 1 vụ chính để thành ruộng tập quán 2 vụ được công bằng hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách, Bộ Tài chính hướng dẫn một số điểm cụ thể quy định như sau:

1. Đối với sản lượng tính thuế của ruộng đất đã thành tập quán 2 vụ được xác định từ vụ mùa 1976 và đã ấn định đến hết năm 1980.

Sau năm năm ổn định, ruộng đất tập quán 2 vụ (vụ mùa vụ Đông Xuân) có vùng đã sản xuất thêm vụ thứ ba là vụ hè thu nhưng chưa thành tập quán thì vụ hè thu này dù có thu hoạch bội thu cũng không phải tính thuế thêm. Nhưng do sản xuất tăng thêm vụ thứ ba nên làm lỡ thời vụ sản xuất của vụ chính hoặc tập trung vật tư kỹ thuật vào vụ hè thu, coi nhẹ sản xuất vụ chính, thu hoạch vụ chính kém, sút thì vẫn phải tính đủ sản lượng thường niên thường niên tính thuế của 2 vụ chính để được ổn định, không được đặt ra lý do thiệt hại để xét miễn giảm thuế cho vụ chính, sản lượng thường niên tính thuế là sản lượng của 2 vụ chính đã thành tập quán, nếu tăng vụ thu mà làm giảm sản lượng của vụ chính, thì lấy phần bội thu của vụ phụ để bù đắp cho vụ chính.

2. Ruộng 1 vụ đã trở thành tập quán 2 vụ:

a) Ruộng đất trước đây tập quán sản xuất 1 vụ và đã ổn định sản lượng thường niên tính thuế từ vụ mùa 1995; do có phong trào sản xuất tăng vụ, thâm canh, tăng năng suất, nhiều vùng đã tăng thêm vụ sản xuất, đưa vòng quay ruộng đất từ 1 vụ lên thành hai vụ ăn chắc từ 1977 đến nay như các hình thức sau đây:

- Từ ruộng tập quán 1 vụ mùa đã sản xuất tăng vụ thêm vụ đông xuân.

- Từ ruộng đất tập quán 1 vụ đông xuân, đã sản xuất tăng vụ thêm vụ hè thu.

- Từ ruộng đất tập quán 1 vụ mùa, đã sản xuất tăng vụ thêm vụ xuân hè.

Những loại ruộng đất như trên, đã tăng vụ được 5 năm thì phải xếp vào loại ruộng đất tập quán 2 vụ, phải xác định sản lượng thường niên tính thuế là ruộng đất tập quán 2 vụ để tính thuế nông nghiệp hàng năm.

Những ruộng đất tập quán là 1 vụ, từ trước và sau 1976 đến nay đã liên tục sản xuất 2 vụ ăn chắc thì phải định sản lượng tính thuế của ruộng đất tập quán 2 vụ để tính thuế cho thuế nông nghiệp 1980-1981. Những ruộng đất tập quán 1 vụ, từ trước đến nay đã liên tục sản xuất 2 vụ ăn chắc thì phải định sản lượng tính thuế của ruộng đất tập quán hai vụ để tính thuế cho năm thuế nông nghiệp 1981-1982. Ruộng đất tăng vụ của các năm tiếp theo cũng căn cứ vào thời gian tăng vụ và tập quán địa phương áp dụng như quy định này.

b) Ruộng đất trước đây tập quán sản xuất 1 vụ đã tăng vụ thành ruộng sản xuất 2 vụ nhưng chưa thành tập quán:

Những ruộng đất đã định sản lượng thường niên tính thuế là ruộng tập quán 1 vụ và được ổn định từ vụ mùa 1976 (1 vụ mùa hoặc 1 vụ đông xuân) trong những năm qua có vùng đó sản xuất tăng thêm 1 vụ nữa, đưa ruộng tập quán 1 vụ thành ruộng 2 vụ:

- Vụ mùa + vụ hè thu

- Vụ mùa + vụ xuân hè

- Vụ đông xuân + vụ hè thu.

Tuy đã đưa ruộng đất 1 vụ lên ruộng đất 2 vụ, nhưng mới bước vào sản xuất tăng vụ 1 vài năm gần đây, vụ tăng vụ chưa thành tập quán, vẫn còn coi là vụ sản xuất phụ, trường hợp này số thu hoạch của vụ phụ như trên dù có bội thu, cũng không phải tính thuế thêm. Nhưng nếu do sản xuất tăng thêm vụ phụ, thời gian làm vụ phụ lại lấn thời vụ sản xuất của vụ chính hoặc tập t rung vật tư kỹ thuật vào sản xuất vụ phụ để được bội thu, coi như sản xuất vụ chính, kết quả thu hoạch của vụ chính sút kém hoặc để lỡ thời vụ sản xuất, bỏ mất thu hoạh của vụ chính thì sản lượng thường niên tính thuế của vụ chính vẫn phải tính đủ như sản lượng đã định để tính thuế, không đặt ra lý do thiệt hại sản lượng tính thuế vụ chính để xét miễn giảm thuế như đã quy định ở phần cuối của điều 1 trong Thông tư này, trừ trường hợp do thiên tai cả hai vụ chính và phụ sản lượng thu hoạch của 2 vụ chính và vụ phụ cộng lại vẫn chưa đạt sản lượng thường niên tính thuế thì mới đặt ra việc xét miễn giảm.

3- Ruộng sản xuất tập quán 1 vụ mùa là chính vụ nhưng do 1 vùng hoặc 1 khoảnh ruộng  đã được chuyển sang sản xuất hè thu năng suất cao, ăn chắc đã thành tập quán, vụ mùa gieo cất lại thất thường, trường hợp này phải xác định sản lượng thường niên vụ hè thu là chính vụ; phải điều chỉnh sản lượng tính thuế phù hợp với khả năng thu hoạch bình thường hàng năm của vụ hè thu chính vụ để tính thuế nông nghiệp.

4- Ruộng sản xuất tập quán vụ mùa là chính vụ nhưng có 1 vùng đã chuyển sang sản xuất vụ Đông xuân năng suất cao là chính vụ đã thành tập quán, còn vụ mùa tranh thủ gieo thêm.

Trường hợp này cũng phải xác định sản lượng, thường niên vụ Đông xuân là chính vụ, và phải điều chỉnh sản lượng tính thuế phù hợp khả năng thu hoạch bình thường hàng năm của vụ Đông xuân chính vụ để tính thuế nông nghiệp.

Theo phương hướng trên đây các tỉnh sẽ bàn bạc nhất trí và xác định cụ thể cho từng vùng rồi đưa ra quán triệt trong cán bộ và nhân dân để kịp thời áp dụng cho vụ thuế nông nghiệp 1981-1982, kết quả điều chỉnh cụ thể phải được ghi vào văn bản và báo cáo lên Bộ Tài chính biết.

Tải file đính kèm
Hiệu lực: Hết hiệu lực toàn bộ
Ngày có hiệu lực: 27/10/1981
Hướng dẫn việc xác định sản lượng tính thuế ruộng đất 1 vụ đã chuyển thành ruộng có tập quán làm 2 vụ.
Số kí hiệu 28 TC-TNN Ngày ban hành 27/10/1981
Loại văn bản Thông tư Ngày có hiệu lực 27/10/1981
Nguồn thu thập Ngày đăng công báo
Ngành Tài chính -Thuế - Ngân hàng Lĩnh vực
Cơ quan ban hành/ Chức danh/ Người ký Bộ Tài chính Thứ trưởng Võ Trí Cao
Phạm vi
Thông tin áp dụng
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực toàn bộ
Hiệu lực:

Hết hiệu lực toàn bộ

Ngày có hiệu lực:

27/10/1981

Lịch sử hiệu lực:

Thông tư 28 TC-TNN

Ngày Trạng thái Văn bản nguồn Phần hết hiệu lực
27/10/1981 Văn bản được ban hành 28 TC-TNN
27/10/1981 Văn bản có hiệu lực 28 TC-TNN
01/10/1999 Văn bản hết hiệu lực 28 TC-TNN
Văn bản liên quan
Không có văn bản liên quan nào được chọn
  • VB bị thay thế
  • VB được QĐ chi tiết, HD thi hành
  • Văn bản bị bãi bỏ
  • Văn bản bị bãi bỏ một phần
  • Văn bản bị hủy bỏ
  • Văn bản bị hủy bỏ một phần
  • Văn bản bị hết hiệu lực
  • Văn bản bị hết hiệu lực một phần
  • Văn bản bị thay thế một phần
  • Văn bản bị đình chỉ
  • Văn bản bị đình chỉ một phần
  • Văn bản chỉ được bổ sung
  • Văn bản căn cứ
  • Văn bản dẫn chiếu
  • Văn bản liên quan khác
  • Văn bản tiếng anh